Làng Bát Tràng Bát_Tràng

Lịch sử

Thời Hậu Lê, xã Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Sang thời nhà Nguyễn, năm 1822 trấn Kinh Bắc đổi làm trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh, lúc này xã Bát Tràng thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An. Đến năm 1862 chia về phủ Thuận Thành và năm 1912 chia về phủ Từ Sơn.Ngày 13 tháng 12 năm 1954, sáp nhập khu vực phố Gia Lâm (gồm phố Gia Lâm, khu nhà ga Gia Lâm, sân bay Gia Lâm, và 6 xã: Hồng Tiến, Việt Hưng, Long Biên, Ngọc Thụy, Thượng Thanh, Tiến Bộ) của tỉnh Bắc Ninh vào Hà Nội. Từ năm 1961 đến nay, huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành thủ đô Hà Nội.

Năm 1948, xã Bát Tràng nhập với xã Giang Cao và xã Kim Lan lập thành xã Quang Minh. Năm 1964, sau khi xây dựng hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải, thôn Kim Lan bị chia tách với phần còn lại của xã Quang Minh bởi sông Bắc Hưng Hải. Do đó xã Quang Minh được chia tách thành hai xã là Bát Tràng và Kim Lan.

Thôn Bát Tràng nay được chia làm 5 xóm, gồm 2 xóm cổ (xóm 1, xóm 2) giáp bờ sông Hồng và 3 xóm mới (xóm 3, xóm 4, xóm 5).

Nghề làm gốm

Bài chi tiết: Gốm Bát Tràng

Di tích lịch sử, văn hóa

Bài chi tiết: Đình Bát Tràng
Bài chi tiết: Đền Bát Tràng
Bài chi tiết: Miếu Bát Tràng
Văn Từ Bát Tràng

Văn Từ Bát Tràng tên dân gian Bát Tràng quen gọi là Văn Chỉ Bát Tràng, được dựng ngay phía sau Đình Bát Tràng theo lối kiến trúc chữ nhị. Hậu cung là tòa nhà 3 gian, nơi có ban thờ Khổng Tử và 72 vị thánh hiền. Phía trước là tòa Đại Bái 5 gian. Cổng Văn từ xây theo kiến trúc Khuê Văn Các tại Hà Nội.Văn Từ cũng nơi làng Bát Tràng tôn vinh 1 Trạng nguyên, 3 Quận công, 9 tiến sĩ 364 vị khoa bảng của làng khi xưa.

Những năm 90 của thế kỷ XX Văn Từ Bát Tràng được dùng làm lớp học. Hiện nay, Văn Từ Bát Tràng là ngoài là nơi thờ tự còn là nơi khuyến học, nơi hội họp của Hội người Cao Tuổi thôn Bát Tràng.

Hội làng Bát Tràng

Trước đây, Bát Tràng vào đám từ ngày 15 đến ngày 22 tháng hai âm lịch[2]. Nay đã được rút gọn, thường chỉ diễn ra vào hai ngày 14, 15 tháng hai âm lịch.Trước Tết, vào ngày 25 tháng Chạp, làng đem lễ vật đến làng Đuốc (làng kết chạ với Bát Tràng) xin chặt tre làm cây nêu. Ngày 7 tháng Giêng làm lễ hạ nêu. Cây tre làm nêu được dùng để chẻ tăm, vót đũa. Trước khi vào đám độ 10 ngày, làng tổ chức lễ rước nước từ sông Hồng để bao sái bài vị thần ở ngôi miếu bên sông. Sau đó dân làng rước bài vị thần ra đình tế lễ. Khi tế, các họ được rước Tổ của mình ra phối hưởng. Họ Nguyễn Ninh Tràng (họ đầu tiên đến làng Bát Tràng) được rước bát hương có lọng che vàng đi ở giữa. Các họ khác rước bát hương có lọng che xanh đi né sang hai bên. Khi tế, chỉ có các vị khoa mục (những người đỗ đạt) mới được vào đình, còn các hào mục (những chức dịch trong làng) đứng ngoài hầu lễ. Bát Tràng còn lệ giữ nghiêm ngôi thứ. Tại đình trải 4 chiếu cạp điều. Có chiếu dành cho các vị đậu tiến sĩ, có chiếu dành cho võ quan được phong tước công, có chiếu dành cho các cụ thọ từ 100 tuổi trở lên. Có năm không đủ người, chiếu nào trống thì làng đặt một cây đèn, chai rượu, đĩa trầu cau vào giữa chiếu để thờ vọng. Hằng năm vào ngày Rằm tháng hai, ngày đầu tiên vào đám, làng biện lễ cúng Thành hoàng gồm một con trâu tơ thật béo, thui vàng rồi đặt lên một chiếc bàn lớn sơn son, kèm theo 6 mâm cỗ và 4 mâm xôi. Tế xong, các quan viên chức sắc, đại diện 20 dòng họ cùng thụ lộc[2].Hội Bát Tràng có nhiều trò diễn, độc đáo nhất là trò chơi cờ người và hát thờ. Theo lệ, trước hội, làng chọn lấy 2 bà tướng cờ là những người phẩm hạnh, giàu có nhất trong làng. Mỗi bà tướng nhận 16 thiếu nữ tuổi từ 10 đến 15 xinh đẹp, nết na nuôi ăn uống và may cho áo quần thật đẹp. Các cô được rèn tập làm quân cờ trong một tháng mới được ra biểu diễn thi đấu ở sân đình[2].